Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lục Tổ Huệ Năng, Ba Chặng Đường, Một Đời Sống

29 Tháng Ba 202121:41(Xem: 3767)
Lục Tổ Huệ Năng, Ba Chặng Đường, Một Đời Sống
Lục Tổ Huệ Năng
Ba Chặng Đường, Một Đời Sống

 

Một đời người có rất nhiều chặng đường trong đời sống. Chúng ta có nghe: "Thời gian còn nhỏ học chết bỏ. Lớn lên làm việc chết bỏ. Về già tu chết bỏ." Hay Khổng Tử lại nói: "Tam thập nhi lập. Tứ thập nhi bất hoặc. Ngũ thập nhi nhĩ thuận. Lục thập tri thiên mạng. Thất thập cổ lai hy." Cũng trong ý nghĩa của chặng đường ấy, nền văn học bình dân Việt Nam cũng nói: "Sông có khúc, người có lúc." Người có nhiều lúc lắm. Lúc còn nhỏ khóc nhòe. Lúc lớn lên lao đầu vào cuộc sống. Và lúc về già thì đau yếu, bệnh hoạn. Cứ như thế, đời người ai cũng vậy. Thăng, trầm, thành, bại có đủ. Hay khi lên voi, lúc xuống chó, dường như không thiếu một chặng đường nào. Dẫu biết vậy, nhưng có người trải qua bao chặng đường của đời sống, nhưng cuối đời rồi chẳng ra chi. Sanh tử vẫn hoàn sanh tử. Luân hồi nghiệp báo vẫn hoàn nghiệp báo, luân hồi, chẳng xa rời một tơ hào, gang tấc. Người xưa nói: "Phận nghèo trèo núi lặn non, tránh sao khỏi cực, cực cũng còn theo sau." Nếu người biết tu, biết học Phật pháp, biết chuyển nghiệp ác thành nghiệp thiện, biết bỏ dữ làm lành thì chắc hẳn được có đời sống an vui, hạnh phúc, còn bằng ngược lại thì đời mình sẽ nhiều lênh đênh, trôi dạt, bể dâu. Tất cả đều do mình quyết định cho đời mình để có được sự thăng hoa hướng thượng, hay bị rơi rụng, lăn lóc, gian truân.

Chúng ta bình tâm để thấy ba chặng đường một đời sống của Lục Tổ Huệ Năng:

Chặng đường thứ nhất: Làm người tiều phu, vào rừng đốn củi, gánh xuống chợ đổi gạo, kiếm tiền, để nuôi Mẹ già và tự thân. Cứ thế, ngày này qua ngày nọ, một đời sống thanh thản dần trôi trong vô thức. Vì không có sự suy tư, đắng đo, lý giải, chỉ có một lòng nuôi Mẹ già để đền ơn, trả hiếu trong bổn phận của người làm con. Không sợ nặng nhọc gánh củi xuống chợ. Không sợ gian khổ để nuôi Mẹ già ở túp lều tranh trong bìa rừng heo hút. Ngày thì vui với cây rìu đốn củi. Đêm thì vui bên cạnh Mẹ già, chăm sóc cơm nước.

Làm thân một lão tiều phu, sống đời núi rừng, lầm lũi trông thật hắt hiu, nhưng tâm hồn luôn trong sáng, như nhiên như lá hoa đồng, cỏ nội. Như rừng xanh núi cao đậm màu hương sắc cho một sức sống hạo nhiên mang tính thiên nhiên, tạo vật. Một lão tiều phu yêu rừng xanh nước thẳm. Tâm tư của lão như áng mây trời bềnh bồng theo gió mang đi khắp bốn phương trời, không vướng mắc, không trói buộc bất cứ nơi đâu. Đốn củi xong, gối đầu nơi gốc cây nghỉ ngơi, lấy lại sức khỏe, chiều gánh củi xuống chợ bán để có tiền mua gạo, rau tương về sống với Mẹ già. Ôi! Một đời sống trung trinh với cái Hiếu, cái Thảo của đứa con của Mẹ một đời thanh cao. Đây, bên cạnh ánh đèn dầu leo lét, Mẹ nằm ngủ an nhiên, hiện lên khuôn mặt răn reo nhưng nội hàm thánh thiện. Kia, bên góc túp lều, lão tiều phu, con của Mẹ đang chăm đọc Kinh Kim Cang, trải qua bao năm tháng như vậy, nhưng vẫn chưa hiểu nổi ý Kinh, còn nằn nèo, dò dẫm mong cầu liễu nghĩa, thấu đạt lời Phật dạy: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, là gì?" Xếp Kinh lại gối nơi đầu, ngủ trong dòng suối mát của lời Kinh nhiệm mầu.

Chặng đường thứ hai: Gà rừng vừa gáy sáng. Trời phương đông còn tỏ lờ mờ, Mẹ già dậy trước, đánh thức con gánh củi xuống chợ cho nhà ông cư sĩ tu Phật, mà ngày hôm qua hai bên đã giao hẹn. Lão tiều phu choàng tỉnh, nhìn Mẹ trong ánh mắt trong sáng, đầy vẻ an lạc, kính yêu. Đã 20 năm rồi, hai Mẹ con sống như thế. Con vào rừng đốn củi. Mẹ ở túp lều tranh, cơm nước cho con. Sớm chăm sóc vườn rau cải, ngò, tía tô, rau húng... chiều tụng Kinh, thầm nguyện "Nam Mô Phật" cho hai Mẹ con luôn sống có nhau, an lành giữa núi rừng trầm lặng. Đây, bát nước trà gừng còn bốc khói, nồi khoai mài núi mới hấp xong, lão tiều ăn buổi sáng, uống cạn bát trà nóng, rồi chào Mẹ, gánh củi xuống chợ. Trên con đường từ nhà gánh đôi củi nặng trên vai mà tâm luôn chiêm nghiệm lời Kinh Kim Cang khi hôm, "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm!!!" Như là đề khởi công án Thiền không vụt chạc, không xao lãng, như gà ấp trứng, như mèo rình chuột, một lòng phá vỡ công án để quách nhiên tỏ ngộ lời Kinh.

Lão tiều phu gánh củi đã đến trước nhà người cư sĩ tu Phật, nhưng không gánh củi vào, dường như ông ta còn chiêm nghiệm một điều gì đó. Thì ra, một âm thanh trầm bổng, lời nhặt tiếng khoan của người cư sĩ tu Phật đang tụng Kinh Kim Cang từ trong nhà đã rót trọn vào tâm tư của lão tiều phu bán củi đang đứng ngoài cửa. Tâm tư định tĩnh. Ý lòng vô sự, như ánh sáng ban mai soi tỏ trên những lá hoa, làm rạng rỡ, ngời lên màu xanh tía lục của ruộng vườn, núi đồi, non cao, biển thắm. Lời Kinh tụng Kim Cang đến câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" của người cư sĩ tu Phật đột phá một cách mãnh liệt, xô dạt bao thành trì vô minh, chấp ngã của tự tâm, làm rơi rụng bao não phiền, lậu hoặc... Một dòng suối mát chảy vào đến tận tâm cang, ý lòng bừng sáng, quách nhiên liễu ngộ lời Kinh. Hãy đem cái tâm của mình đặt vào chỗ không có chỗ đặt. Giờ đây, lại đặt gánh củi lên vai gánh vào cửa nhà người cư sĩ tu Phật kia, lão tiều phu đâu còn thấy gánh củi trên vai để gánh, và cũng chẳng thấy có người gánh củi để bán, kiếm tiền nuôi dưỡng Mẹ già sống trong túp lều giữa núi rừng kia. Bình đẳng nhất như, hữu tình vô tình, nhơn pháp câu không.

Chặng đường thứ ba: có người hàng xóm tốt bụng, biết được chí nguyện xuất trần của lão tiều phu, nên đã đem cho tiền bạc, cấp dưỡng Mẹ già, sớm hôm chăm sóc... Đã có người thay thế mình để phụng dưỡng Mẹ, nên đã yên lòng, người tiều phu đứa con hiếu thảo của Mẹ, khăn gói lên đường đâu đó đã xong, vào lạy Mẹ ra đi tìm Thầy học đạo. Biết được ở núi Nam Nhạc, Ngũ Tổ Hoàng Mai đang có một đồ chúng lớn đang tu học ở nơi đó.

Ngày đi, đêm nghỉ, dốc hết chí nguyện tu hành, cầu mong đem cái sở ngộ của mình mà phụng sự cho công đức hóa độ, tự tha viên mãn. Lão tiều phu, quê mùa, dân dã bước chân vào cửa Phật, dần về phía cốc của Ngũ Tổ Hoàng Mai, sụp lạy ba lạy, thấy vậy, Tổ hỏi: "Ông là ai? Từ đâu đến đây?" "Bạch Tổ, con là người xứ phương Nam, đến đây để cầu làm Phật." Tổ nói: "Người xứ phương Nam là làng mọi rợ, làm sao có tánh Phật mà cầu?" "Bạch Tổ, người thì có người ở phương Bắc, phương Nam, chứ Phật tánh đâu có Nam Bắc." Trước câu nói của người nhà quê dân dã kia, Ngũ Tổ biết đây là pháp khí nhà Thiền rồi.

Do vậy, Tổ bảo: "Hãy xuống nhà dưới mà giã gạo đi." Mừng quá, đã được Tổ cho ở lại đây thì làm gì cũng được, dù bắt mang đá, giã gạo, gánh nước, bửa củi gì gì cũng vui. Tấm lòng của người cầu đạo thì chẳng nề hà gì hết. "Sớm hiểu đạo, chiều chết cũng cam lòng" huống nữa là gánh nước, bửa củi, giã gạo thì đâu là gì! Nhưng có ai ngờ rằng trong thân tướng của gã nhà quê dân dã kia lại nội hàm bao nhiêu tánh giác, linh minh, đổng triệt của một bậc Thánh, Tổ Sư. Tánh giác ấy ẩn tàng trong thân năm uẩn, ẩn sâu trong tứ đại, giả hợp duyên sinh, như viên ngọc ma ni ngàn năm dưới lòng đại dương thăm thẳm. Một khi tánh giác đã bùng vở, đạo giải thoát đã chín mùi, giác ngộ bừng dậy, thì ở đâu cũng là Tổ, cũng là Thánh giả, xuất trần. Lục Tổ Huệ Năng, trong thân tướng là "người dân dã, hoang sơ", nhưng trong tự tánh lại là "bậc xuất trần vi thượng sĩ." Bậc Thánh trong hàng Thánh. Bậc Tổ Sư Thiền trong hàng Tổ Sư bậc trội. Chính  vì vậy, mà Tổ đã quán chiếu tự tánh của mình, của vạn sự vạn vật để lại bài học vô giá tuyệt đối trên tiến trình tu chứng bản lai diện mục của vạn pháp:

"Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh

Đâu ngờ tự tánh vốn không sinh diệt

Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ

Đâu ngờ tự tánh vốn không giao động

Đâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp."

Cho đến một ngày, đang mang đá giã gạo dưới nhà bếp, có người vào vỗ vai mà nói: "Này chú giã gạo có muốn đọc bài kệ của ngài Thần Tú, người làm giáo thọ đại chúng ở đây, theo lời chỉ dạy của Tổ mà làm bài kệ để trình cái sở ngộ của mình." Do vậy, ngài Thần Tú đã làm bài kệ dán trên vách nhà Tăng kia."

Tôi là người "vô học", không biết đọc chữ, xin đọc giúp cho nghe.

"Thân thị Bồ đề thọ

Tâm như minh cảnh đài

Thời thời cần phất thức

Vật sử nhạ trần ai."

Dịch: 

Thân như cây Bồ đề

Tâm như đài gương sáng

Siêng năng thường lau chùi

Chớ để dính bụi trần.

- Sao! Chú giã gạo kia, có hiểu không, có muốn làm kệ trình chỗ sở ngộ của mình không? Tôi thấy chú đến đây và đã giã gạo qua tám tháng dưới nhà bếp rồi.

- Tôi cũng muốn làm kệ, nhưng không biết viết, xin viết giùm cho.

- Được, tôi viết cho, nhưng khi được Tổ trao y bát, thì xin đừng quên tôi nghe. Chú giã gạo đọc kệ:

"Bồ đề bổn vô thọ

Minh cảnh diệc phi đài

Bổn lai vô nhất vật

Hà xứ nhạ trần ai."

Dịch:

Bồ đề chẳng phải cây

Gương sáng chẳng phải đài

Xưa nay không một vật

Lấy chi dính bụi trần.

Bài kệ được viết xong trên vách tường chùa phía Bắc, cả đại chúng hăm hở thi nhau mà đọc, người người đến xem, làm náo động nhà Thiền. Tiếng đồn đến tai Tổ, chống gậy ra xem bài kệ viết thế nào, sở ngộ của người làm kệ ra sao. Sau khi đọc qua Tổ biết sở ngộ của người trình kệ, mà nếu để lâu chắc sinh ra những điều không hay. Tổ liền bảo: "Hãy chùi bài kệ này đi, người chưa tu hành không thể hiểu tới." Bài kệ xóa đi quay về "Tánh Không." Im lìm ngàn đời bất động, không tăng, không giảm, chẳng thường, chẳng đoạn, như nhiên.

Cảnh vật nhà Thiền, chìm vào đêm trường tĩnh lặng, hai bóng thầy trò chập chờn dưới ánh trăng đêm. Nghe tiếng êm đềm đâu đây: "Để Thầy đưa con qua sông." Bạch Thầy: "Khi xưa con chưa "ngộ" thì nhờ Thầy "độ" cho, nhưng bây giờ con đã "ngộ" rồi thì con tự "độ" lấy.

Ba cảnh đời, một cuộc sống, có đủ phàm thánh trong nhau. Bài học của đời, kiếp tu của Đạo đáng giá ngàn vàng, ai ơi! Tánh - Tướng có dị, đồng, nhưng bổn lai không khác. Nguyện xin thừa sự mười phương chư Phậtliễu ngộ tự tâm, dù có trôi lăn trong biển trầm luân sinh tử, cũng không bao giờ quên Bồ đề tâm.

Chùa Phật Đà, ngày 26 tháng 3 năm 2021

Thích Nguyên Siêu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1701)
Con người thường có quan điểm: “mạng sống, sự sống của con ngườivô giá, là giá trị nhất so với sự sống của muôn ngàn loài khác”
(Xem: 1548)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 1590)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1429)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1840)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1596)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1373)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1669)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2215)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1925)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1284)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1459)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1460)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1740)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1507)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1371)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1509)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1456)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1782)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1488)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1442)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1449)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1531)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1722)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1609)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1553)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1436)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1534)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1302)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 2013)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1406)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1561)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2954)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1565)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1748)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1607)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2068)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1600)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1798)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 2006)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2193)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1671)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2638)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1729)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1913)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1865)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1649)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2378)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1813)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1896)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant